Tu viện cổ Tà Phìn Sapa – Lào Cai
Số lượng xem: 517
Xã Sa Pả, huyện Sa Pa, Lào Cai

Tu viện cổ Tả Phìn cách thị trấn Sa Pa khoảng 12 km về phía đông, tọa lạc ở bản Tà Phìn, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai là một tu viện bỏ hoang, rêu phong.

Tu viện cổ này nằm dưới chân núi, được xây năm 1942. Đây từng là nơi tu hành của 12 nữ tu theo lối khổ hạnh thuộc dòng Nữ tu của Hội thánh Kitô cải giáo sinh hoạt truyền đạo. Năm 1945, do tình hình chiến tranh, đoàn nữ tu rời về Hà Nội, tu viện vì thế mà bị bỏ hoang thành phế tích cho đến ngày nay.

 

 

Theo một tài liệu bằng tiếng Anh và cuốn Du lịch Lào Cai, do Sở Thương mại Du lịch Lào Cai xuất bản tháng 11/2004, thì tu viện Tà Phìn có lịch sử như sau: Cuối năm 1942, có 12 nữ tu theo lối khổ hạnh, thuộc dòng Nữ tu của Hội Thánh Kitô cải giáo, những người truyền giáo và cứu rỗi sám hối, bị trục xuất ra khỏi Nhật Bản. Tám người trong số họ và một thầy dòng khác tình nguyện xin được ở lại châu Á để tiếp tục truyền đạo. Đại sứ Pháp tại Nhật đã viết một bức thư gửi Cha Tổng giám mục giáo phận Hưng Hóa, trong đó Lào Cai là một xứ đạo, xin cho họ được đến vùng này để tiếp tục truyền đạo.

 

 

Vào tháng 2/1942, quan toàn quyền Bắc Kỳ ký một khế ước có giá trị lâu dài chuẩn y việc cấp cho đoàn nữ tu khu đất bỏ hoang cạnh Trạm nghiên cứu giống cây ăn quả Tả Phìn, với số tiền thuê tượng trưng là 1 quan một năm. Tháng 6/1942, đoàn nữ tu lên đến Lào Cai và được bố trí ở trong một căn nhà gỗ “tồi tàn và chẳng có lấy một tiện nghi nào” mỗi người trong số họ không có một cái gì ngoài bộ quần áo đang mặc trên người và 200 yen. Họ được quan Pháp tỉnh trưởng Lào Cai đồng ý cấp cho họ một đàn gia súc gia cầm làm giống, bao gồm “8 con bò sữa, 9 con bê, 2 bò đực, 2 bò cái tơ, 1 con bò mộng, 24 con gà mái, 6 con lợn và nhiều nông cụ”. Đoàn vật nuôi cấp cho đoàn nữ tu nhằm mục đích phát triển đàn gia súc gia cầm của Sapa; và bổ sung cho nguồn cung cấp thực phẩm có nguồn gốc từ chăn nuôi như sữa tươi, bơ, pho mát - những thứ mà bản thân Sapa sản xuất ra không đủ cho nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch và quân nhân lên nghỉ mát. Không chỉ chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, các nữ tu khổ hạnh còn tích vực tham gia vào việc nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật canh tác các giống cây lương thực ôn đới như lúa kiều mạch đen, đại mạch, cùng các loại cây ăn quả, khoai lang, các loại rau và nho. Sau đó trạm nghiên cứu thực nghiệm thuộc tu viện đã sản xuất được các loại mứt táo, mứt đào và nhiều loại hoa quả tươi khác; lượng sữa, bơ và pho mát sản xuất ra đã không đủ đáp ứng cho nhu cầu ngày càng nhiều và từ những đơn đặt hàng từ Hà Nội gửi lên yêu cầu loại pho mát và bơ giống như loại pho mát hiệu “Port salut” sản xuất tại chính quốc. Và Tà Phìn nhanh chóng trở thành nơi cung cấp các loại hoa quả tươi chính cho thị trấn Sapa.

 

 

Năm 1945, do tình hình an ninh bất ổn, đoàn nữ tu đã vội vã di tản về Hà Nội, bỏ lại tu viện bị đốt phá hoang tàn. Tu viện đã bị bỏ hoang hơn nửa thế kỷ, nay chỉ còn những mảng tường rêu phong nhưng vẫn toát lên được vẻ đẹp kì bí với những đường nét mang đậm phong cách kiến trúc thời thuộc Pháp.

Nhìn tổng thể, tu viện gồm một nhà ngang hướng mặt về phía tây, 5 gian và một cầu thang, cao 3 tầng (kể cả tầng trệt), tuy nhiên hiện nay do bị người ta san lấp nên chỉ có 2 tầng là ở trên mặt đất, còn tầng trệt thì nằm dưới sâu như thể một tầng hầm vậy. Nhà ngang này chính là chỗ ở, sinh hoạt của các nữ tu. Ngoài ra, bên phải của toà nhà còn có một nhà dọc nối liền với nhà ngang, đây có thể là nơi cất giữ lương thực thực phẩm, đồ đạc, và là “nhà bếp” của tu viện. Toàn bộ toà nhà hiện nay không còn phần mái, chỉ sót lại mấy ống khói (cũng có thể là lỗ thông hơi), một số bức tường nóc. Phía trước toà nhà là một hành lang khá rộng, dài, nhưng cũng đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một ít cột hiên nhỏ, tròn, thấp khá nguyên vẹn.

 

 

Tu viện chủ yếu được làm bằng đá và gạch, liên kết bằng vữa xi măng, rất chắc chắn. Tường được xây khá dày, tạo nên không khí trong tu viện vừa yên tĩnh vừa thâm nghiêm; mùa đông thì ấm áp mà mùa hè lại mát mẻ, rất phù hợp với khí hậu nơi đây. Cửa sổ hình bán nguyệt, theo kiến trúc Roman. Hệ thống ống dẫn nước được lắp đặt đến tận từng phòng, vì các phòng được xây dựng cách biệt nhau qua những bức tường kín, không có cửa thông, chỉ có cửa chính phía trước theo lối hành lang.

 

 

 

Qua nhà dọc, nhìn kỹ lên mặt tường phía trước sẽ thấy rất rõ nhiều vết đạn còn in dấu. Ngoài ra trên đó còn sót lại một dòng chữ được sơn màu trắng, mất mấy chữ đầu và cuối, chỉ còn khúc giữa nên không rõ nghĩa. Bên cạnh nhà dọc này là một bể nước khá lớn, mới được xây dựng sau này, phục vụ cho nhu cầu tưới tiêu và sinh hoạt của những công nhân trồng Atisô.

Ngày nay tu viện đã bị phá huỷ đi rất nhiều, lại lâu ngày bỏ hoang nên cây cối thi nhau mọc lên cả những bờ tường, cửa sổ. Dẫu vậy, chỉ cần quan sát những gì còn lại cũng đủ thấy được phần nào quy mô, tầm vóc và kiến trúc của công trình.

 

 

Nằm giữa núi rừng của Sa Pa, dù đã trải qua gần cả thế kỷ thăng trầm nhưng khu tu viện Tả Phìn vẫn mang nét văn hóa, kiến trúc độc đáo mà không nơi nào có được. Nhìn những bức tường đá phủ kín rêu phong theo năm tháng bị hoang phế từ lâu vẫn thấy được phần nào quy mô, tầm vóc và kiến trúc của công trình.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập

BÀI ĐĂNG
TAGS
Tu viện cổ Tà Phìn Sapa – Lào Cai
Xã Sa Pả, huyện Sa Pa, Lào Cai

Tu viện cổ Tả Phìn cách thị trấn Sa Pa khoảng 12 km về phía đông, tọa lạc ở bản Tà Phìn, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai là một tu viện bỏ hoang, rêu phong.

Tu viện cổ này nằm dưới chân núi, được xây năm 1942. Đây từng là nơi tu hành của 12 nữ tu theo lối khổ hạnh thuộc dòng Nữ tu của Hội thánh Kitô cải giáo sinh hoạt truyền đạo. Năm 1945, do tình hình chiến tranh, đoàn nữ tu rời về Hà Nội, tu viện vì thế mà bị bỏ hoang thành phế tích cho đến ngày nay.

 

 

Theo một tài liệu bằng tiếng Anh và cuốn Du lịch Lào Cai, do Sở Thương mại Du lịch Lào Cai xuất bản tháng 11/2004, thì tu viện Tà Phìn có lịch sử như sau: Cuối năm 1942, có 12 nữ tu theo lối khổ hạnh, thuộc dòng Nữ tu của Hội Thánh Kitô cải giáo, những người truyền giáo và cứu rỗi sám hối, bị trục xuất ra khỏi Nhật Bản. Tám người trong số họ và một thầy dòng khác tình nguyện xin được ở lại châu Á để tiếp tục truyền đạo. Đại sứ Pháp tại Nhật đã viết một bức thư gửi Cha Tổng giám mục giáo phận Hưng Hóa, trong đó Lào Cai là một xứ đạo, xin cho họ được đến vùng này để tiếp tục truyền đạo.

 

 

Vào tháng 2/1942, quan toàn quyền Bắc Kỳ ký một khế ước có giá trị lâu dài chuẩn y việc cấp cho đoàn nữ tu khu đất bỏ hoang cạnh Trạm nghiên cứu giống cây ăn quả Tả Phìn, với số tiền thuê tượng trưng là 1 quan một năm. Tháng 6/1942, đoàn nữ tu lên đến Lào Cai và được bố trí ở trong một căn nhà gỗ “tồi tàn và chẳng có lấy một tiện nghi nào” mỗi người trong số họ không có một cái gì ngoài bộ quần áo đang mặc trên người và 200 yen. Họ được quan Pháp tỉnh trưởng Lào Cai đồng ý cấp cho họ một đàn gia súc gia cầm làm giống, bao gồm “8 con bò sữa, 9 con bê, 2 bò đực, 2 bò cái tơ, 1 con bò mộng, 24 con gà mái, 6 con lợn và nhiều nông cụ”. Đoàn vật nuôi cấp cho đoàn nữ tu nhằm mục đích phát triển đàn gia súc gia cầm của Sapa; và bổ sung cho nguồn cung cấp thực phẩm có nguồn gốc từ chăn nuôi như sữa tươi, bơ, pho mát - những thứ mà bản thân Sapa sản xuất ra không đủ cho nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch và quân nhân lên nghỉ mát. Không chỉ chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, các nữ tu khổ hạnh còn tích vực tham gia vào việc nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật canh tác các giống cây lương thực ôn đới như lúa kiều mạch đen, đại mạch, cùng các loại cây ăn quả, khoai lang, các loại rau và nho. Sau đó trạm nghiên cứu thực nghiệm thuộc tu viện đã sản xuất được các loại mứt táo, mứt đào và nhiều loại hoa quả tươi khác; lượng sữa, bơ và pho mát sản xuất ra đã không đủ đáp ứng cho nhu cầu ngày càng nhiều và từ những đơn đặt hàng từ Hà Nội gửi lên yêu cầu loại pho mát và bơ giống như loại pho mát hiệu “Port salut” sản xuất tại chính quốc. Và Tà Phìn nhanh chóng trở thành nơi cung cấp các loại hoa quả tươi chính cho thị trấn Sapa.

 

 

Năm 1945, do tình hình an ninh bất ổn, đoàn nữ tu đã vội vã di tản về Hà Nội, bỏ lại tu viện bị đốt phá hoang tàn. Tu viện đã bị bỏ hoang hơn nửa thế kỷ, nay chỉ còn những mảng tường rêu phong nhưng vẫn toát lên được vẻ đẹp kì bí với những đường nét mang đậm phong cách kiến trúc thời thuộc Pháp.

Nhìn tổng thể, tu viện gồm một nhà ngang hướng mặt về phía tây, 5 gian và một cầu thang, cao 3 tầng (kể cả tầng trệt), tuy nhiên hiện nay do bị người ta san lấp nên chỉ có 2 tầng là ở trên mặt đất, còn tầng trệt thì nằm dưới sâu như thể một tầng hầm vậy. Nhà ngang này chính là chỗ ở, sinh hoạt của các nữ tu. Ngoài ra, bên phải của toà nhà còn có một nhà dọc nối liền với nhà ngang, đây có thể là nơi cất giữ lương thực thực phẩm, đồ đạc, và là “nhà bếp” của tu viện. Toàn bộ toà nhà hiện nay không còn phần mái, chỉ sót lại mấy ống khói (cũng có thể là lỗ thông hơi), một số bức tường nóc. Phía trước toà nhà là một hành lang khá rộng, dài, nhưng cũng đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một ít cột hiên nhỏ, tròn, thấp khá nguyên vẹn.

 

 

Tu viện chủ yếu được làm bằng đá và gạch, liên kết bằng vữa xi măng, rất chắc chắn. Tường được xây khá dày, tạo nên không khí trong tu viện vừa yên tĩnh vừa thâm nghiêm; mùa đông thì ấm áp mà mùa hè lại mát mẻ, rất phù hợp với khí hậu nơi đây. Cửa sổ hình bán nguyệt, theo kiến trúc Roman. Hệ thống ống dẫn nước được lắp đặt đến tận từng phòng, vì các phòng được xây dựng cách biệt nhau qua những bức tường kín, không có cửa thông, chỉ có cửa chính phía trước theo lối hành lang.

 

 

 

Qua nhà dọc, nhìn kỹ lên mặt tường phía trước sẽ thấy rất rõ nhiều vết đạn còn in dấu. Ngoài ra trên đó còn sót lại một dòng chữ được sơn màu trắng, mất mấy chữ đầu và cuối, chỉ còn khúc giữa nên không rõ nghĩa. Bên cạnh nhà dọc này là một bể nước khá lớn, mới được xây dựng sau này, phục vụ cho nhu cầu tưới tiêu và sinh hoạt của những công nhân trồng Atisô.

Ngày nay tu viện đã bị phá huỷ đi rất nhiều, lại lâu ngày bỏ hoang nên cây cối thi nhau mọc lên cả những bờ tường, cửa sổ. Dẫu vậy, chỉ cần quan sát những gì còn lại cũng đủ thấy được phần nào quy mô, tầm vóc và kiến trúc của công trình.

 

 

Nằm giữa núi rừng của Sa Pa, dù đã trải qua gần cả thế kỷ thăng trầm nhưng khu tu viện Tả Phìn vẫn mang nét văn hóa, kiến trúc độc đáo mà không nơi nào có được. Nhìn những bức tường đá phủ kín rêu phong theo năm tháng bị hoang phế từ lâu vẫn thấy được phần nào quy mô, tầm vóc và kiến trúc của công trình.

 

Bài: Sưu tầm & Biên tập